Từ Vũng Tàu, cha nhảy xuống biển bơi về Sài Gòn để quyết tâm đoàn tụ với vợ con.
Ngày giải phóng miền Nam năm 1975 tôi chỉ là một đứa bé gái sắp lên bảy, và cũng từ ngày đó hình ảnh người cha hiện lên rõ nét và khắc sâu trong tâm trí tôi.
Cha tôi là lính hải quân VNCH. Ngày giải phóng là lúc ông đang đóng quân tại Vũng Tàu. Với lệnh giới nghiêm được ban hành nghiêm ngặt khắp mọi nơi, cha không thể trở về Sài Gòn với vợ và bầy con thơ bảy đứa, đứa lớn nhất mười hai tuổi và đứa nhỏ nhất chỉ mới lên hai. Quá sốt ruột vì sự an nguy của vợ con, ông chuẩn bị một ít lương khô và nước uống rồi nhảy ùm xuống biển với một chiếc phao. Cứ thế, ông nhắm theo la bàn mà bơi. Sau một vài giờ lênh đênh trên biển, ông được một chiếc tàu vớt lên. Vừa lên tàu, ông hỏi họ tàu này đi về đâu. Người trên tàu bảo: “Đi Mỹ”. Ông cảm ơn họ rồi nhảy lại xuống biển. Chiếc tàu thứ hai phát hiện ra ông và cứu giúp, ông cũng lại cảm ơn họ rồi từ chối. May mắn thay, chiếc tàu thứ ba là tàu của quân giải phóng. Họ vớt cha tôi và đưa ông về Sài Gòn. Sau này chúng tôi biết chuyện hỏi sao cha không đi Mỹ như nhiều người khác? Họ vẫn để vợ con lại đấy thôi. Cha tôi bảo ông không thể bỏ mặc vợ và bầy con thơ ở lại được. Ông phải tìm mọi cách có thể để trở về sum họp với gia đình. Nếu đi Mỹ thì biết cho đến bao giờ mới gặp lại vợ con, và như thế ông sẽ sống không bằng chết.
Về được Sài Gòn, cha tôi vào trại cải tạo ba ngày rồi về nhà ở hẳn với vợ con. Cuộc sống hết sức khó khăn lúc bấy giờ, và với đồng lương giáo viên èo uột của mẹ tôi, bà không thể nào trang trải đủ cho 9 miệng ăn. Cha tôi bàn với mẹ san lại một mảnh đất của người bà con để có thể tăng gia sản xuất, trồng rau, nuôi cá. Ông tự tay xây dựng một ngôi nhà bằng cây lợp mái tôn, vách tôn và sàn xi măng, không có một sự trợ giúp nào, và chưa từng có chút kinh nghiệm gì về nghề xây cất. Ký ức của tôi về cha khi đó là khi tôi thức dậy tôi đã thấy cha đang xúc từng xẻng đất hất lên bờ, và lúc chạng vạng tối, khi mà ánh đèn trong các ngôi nhà thưa thớt quanh vùng được bật lên, tôi vẫn còn thấy ông ở đó, cần mẫn với từng xẻng đất đang được hất lên bờ. Ông còn tranh thủ đào đất cả vào những đêm trời sáng trăng.
Với sức lực của người đàn ông bốn mươi tuổi, cha tôi đã đào hai cái ao to phía trước và phía sau nhà để nuôi hai loại cá cho chúng tôi đổi món. Ông cũng trồng các loại rau, bắp, khoai, mía, … xung quanh nhà để có thêm lương thực cho các con. Ông còn cải thiện bữa ăn cho chúng tôi bằng cách đi mò cua, bắt ốc, bắt tôm ở con sông gần nhà. Ông kể có lần vì mệt quá ông nằm thiếp đi ngoài bờ sông khi nước ròng, lúc tỉnh dậy thấy xung quanh mình toàn rắn là rắn. Ông bảo chắc đó là hôm bầy rắn tụ hội. Chúng tôi nghe ông kể thôi mà đã sợ chết khiếp.
Để có thêm thu nhập nuôi bầy con thơ, cha tôi không ngại nắng mưa, khổ cực nuôi đàn gia súc gồm bò, dê, heo, gà, vịt và cả thỏ nữa. Có lần ông phải cuốc bộ từ huyện Hóc Môn về tận huyện Nhà Bè lúc trời rạng sáng. Chỉ là lần đó ông dẫn bộ về nhà một con bò vừa mới mua từ chiều hôm trước. Khó nhọc là thế, khổ cực là thế, nhưng tôi không hề nghe ông than vãn hay ca thán gì.